Móng cọc luôn là tâm điểm khi thi công xây dựng công trình, nhà ở,...Và ảnh hưởng rất lớn đến việc tư vấn kiến trúc cho công trình đó. Ngoài cọc bê tông, cọc tràm,...thì còn có cọc tre. Vậy cọc tre này có điều gì đặc biệt để mang đến hiệu quả tối ưu cho công trình của bạn. Mời bạn tham khảo bài viết sau đây:
Phạm vi áp dụng
Cọc tre được sử dụng để gia cố nền đất cho những công trình có tải trọng truyền xuống không lớn hoặc để gia cố cừ kè vách hố đào. Cọc tre được sử dụng ở những vùng đất luôn luôn ẩm ướt, ngập nước. Nếu cọc tre làm việc trong đất luôn ẩm ướt thì tuổi thọ sẽ khá cao (50-60 năm và lâu hơn: ông cha ta thường ngâm tre dưới bùn, khi vớt lên đen vàng óng nhưng chống được mối mọt, dùng làm mái nhà ngày xưa hoặc cột nhà tranh). Nếu cọc tre làm việc trong vùng đất khô ướt thất thường thì cọc rất nhanh chóng bị ải hoặc mục (lúc này lại gây nguy hại cho nền móng).
Hiện tại chưa thấy lý thuyết tính toán cụ thể nhưng ta có thể làm như sau: trong giai đoạn thiết kế giả sử sau khi đóng cọc tre đất nền đạt được độ chặt nào đó ( thông qua hệ số rỗng) từ đó tính được sức chịu tải đất nền lấy đó làm căn cứ thiết kế móng (hoặc có thể giả sử sức chịu tải đất nền sau khi đóng cọc). Nên dự tính sức chịu tải và độ lún của móng cọc tre hoặc cọc tràm bằng các phương pháp tính toán theo thông lệ.
Yêu cầu của cọc
Tre làm cọc phải là tre già trên 2 năm tuổi, thẳng và tươi , không cong vênh quá 1cm/ 1md cọc. Dùng tre đặc ( hay dân gian hay gọi là tre đực) là tốt nhất . Độ dày ống tre không nhỏ quá 10mm. Khoảng cách giữa các mắt tre không nên quá 40cm. Đường kính cọc không nên nhỏ hơn 60mm. Chiều dài cọc : cắt dài hơn chiều dài thiết kế 20-30cm. Đầu trên của cọc ( luôn lấy về phía gốc) được cưa vuông góc với trục cọc và cách mắt tre 50mm, đầu dưới được vát nhọn trong phạm vi 200mm và cách mắt 200mm.
Không đóng cọc tre trong đất cát vì đất cát không giữ được nước, thường chỉ đóng cọc tre trong nền đất sét có nước Thông thường người ta đóng 16-25 cọc/m2 vì dễ chia ( khoảng cách cọc 20-25 cm ). Dày hơn nữa chắc không thể đóng được .
Phương pháp hạ cọc
Hạ cọc bằng thủ công : Dùng vồ gỗ rắn loại có trọng lượng từ 8-10kg cho 1 người hoặc 2 người để đóng. Để tránh làm dập nát đầu cọc ta bịt đầu cọc bằng sắt. Cọc đóng xong phải cưa bỏ phần dập nát đầu cọc, nếu cọc chưa xuống sâu mà đầu cọc dập nát thì nhổ bỏ. Trường hợp nền đất yếu bùng nhùng mà khi đóng cọc bằng vồ cọc bị nẩy lên thì nên hạ cọc bằng phương pháp gia tải, kết hợp rung lắc. Đây là một công việc khó nhọc, tốn khá nhiều công sức và thời gian.
Hạ cọc bằng máy : Có thể dùng gầu máy đào để ép cọc nếu có thể. Có thể dùng gầu máy đào để ép cọc nếu có thể. Ở một số nơi đã cải tiến búa máy phá bê tông bằng cách chụp thêm một mũ chụp để đóng cọc tre. Máy nén khí trường hợp này dùng loại có công suất nhỏ, áp lực khi nén khoảng bằng 4-8atm, một máy nén khí có thể dùng đồng thời cho 5-6 máy đóng cọc tre. Phương pháp này thi công nhanh, đỡ vất vả và có thể đóng cọc tre trong hố móng có dưới 20cm nước. Nếu là khóm cọc hoặc ruộng cọc gia cố nền thì tiến hành đóng từ giữa ra. Nếu là dải cọc hoặc hàng cọc thì đóng theo hàng tuần tự. Đối với cọc cừ kè vách hố đào thì đóng từ hàng cọc xa mép hố đào nhất trở vào.
Gia cố nền móng
Cọc tre có thể đóng thủ công hoặc đóng bằng máy. Cọc tre chỉ thi công xây dựng được tại những nơi có mực nớc ngầm cao, cọc tre đợc phải đợc đóng ngập xuống dới mực nớc ngầm để tránh mối, mọt … gây h hỏng cọc trong quá trình sử dụng. Đóng cọc tre là để nâng cao độ chặt của đất, giảm hệ số rỗng dẫn đến nâng cao sức chịu tải của đất nền. Chỉ được đóng cọc tre trong đất ngập nước để tre không bị mục nát, nếu đóng trong đất khô không nước sau đó tre bị mục nát thì lại phản tác dụng làm nền đất yếu đi.
Cọc tre chỉ sử dụng tại những công trình có yêu cầu không lớn về tải trọng. Trình tự đóng cọc tre. Cọc đóng theo quy tắc cái đinh ốc, đóng từ vòng ngoài vào trong, từ xa vào gần tim móng. Cọc lớn đóng trớc, cọc nhỏ đóng sau trong trong cùng một loại móng hoặc từng m2 móng băng. Cọc đóng xuống phải thẳng, không gẫy, dập, cong vênh. Sau khi đóng cọc xong làm thí ngiệm lại để kiểm tra sức chịu tải của nền đất nếu không khác nhiều so với SCT giả thiết thì không cần sửa thiết kế ( thực tế ít có thí nghiệm kiểm tra mà chủ yếu dựa vào kinh nghiệm).
Đăng nhận xét